Bài 172: Để quà du lịch cũng trở thành thông điệp văn hóa...
>> Xây dựng người Hà Nội văn minh, thanh lịch:
Bài 171: Đi bộ cũng cần phải theo luật
Nếu ai từng đi du lịch nước ngoài, sẽ thấy hầu hết các quốc gia phát triển về du lịch đều có những sản phẩm lưu niệm mang đậm dấu ấn văn hóa, cuộc sống của đất nước mình, để khi ta thoạt nhìn vào là biết món quà đó đến từ đâu.
Điển hình như nước Nga từ lâu đã nổi tiếng khắp thế giới với những con búp bê gỗ Ma-tơ-ri-ốt-xca; Nhật Bản gắn liền với quạt giấy, búp bê truyền thống, lật đật Đa-ru-ma; Malaysia có mô hình tòa tháp đôi Petronat; Singapore có sư tử biển; Pháp có hình ảnh tháp Effel trong mọi sản phẩm lưu niệm, hay Thái Lan luôn có hình ảnh voi trên các sản phẩm quà tặng…
Trong khi đó, chỉ tính riêng Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến với hơn 1000 làng nghề thủ công truyền thống, song để tìm một sản phẩm lưu niệm mang dấu ấn riêng của Hà Nội lại không có nhiều lựa chọn. Hơn nữa, sản phẩm lưu niệm nghèo nàn về chủng loại, chưa đẹp về mẫu mã mà ở đâu cũng giống nhau.
Một chuyên gia nước ngoài làm việc lâu năm tại Hà Nội cho biết, 5 năm ở Hà Nội, món quà lưu niệm mà ông mang về cho bạn bè, người thân ở Mỹ mỗi dịp về nước không thay đổi, đó là hình Chùa Một cột. “Thật khó tìm một món quà lưu niệm đặc trưng của Hà Nội ngoài mô hình Chùa Một cột” – vị chuyên gia này nói.
Khách nước ngoài không thích những sản phẩm hiện đại, tinh xảo, được làm bằng máy móc bởi ở nước họ những thứ đó có quá nhiều. Thứ họ muốn mua làm kỉ niệm ở nơi họ tới chỉ là những đồ thủ công. Trong số các món hàng lưu niệm ở Việt Nam mà khách nước ngoài ưa thích, mua về làm quà hơn cả, là: Áo dài, nón lá, hàng thủ công mĩ nghệ, đồ thổ cẩm, quạt giấy, tranh cát, chuồn chuồn tre, thực phẩm khô (ô mai, mứt)...
Ở Hà Nội, nơi tập trung nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm như phố Hàng Bạc, Hàng Đào, Hàng Ngang... đều bày bán những bức tranh thêu tay, tranh chạm khắc gỗ, tranh sơn mài tương tự nhau. Điểm đến nào du lịch nào tại Hà Nội cũng thấy bày bán đồ gốm sứ, mây tre đan, vải lụa… khiến cho du khách băn khoăn không biết đâu mới thực sự là sản phẩm mang bản sắc riêng của Hà Nội. Mới đây, vụ lùm xùm về nguồn gốc của thương hiệu Khai Silk cũng ảnh hưởng đáng kể tới mặt hàng sợi - nguyên liệu chính của áo dài và khăn... là những món đồ lưu niệm đặc sắc của Thủ đô.
Những điểm thu hút nhiều khách tham quan như Quốc Tử Giám, chùa Một Cột, đền Ngọc Sơn... quanh đi quẩn lại cũng vài tập bưu ảnh, những quyển sách lịch sử và vài món quà lưu niệm quá quen thuộc như túi, ví, quần áo dệt thổ cẩm, áo phông in hình cờ Việt Nam, móc đeo chìa khóa, mũ tránh nắng…
Hiện nay, nhiều khách sạn lớn ở Hà Nội chưa có khu trưng bày và bán sản phẩm lưu niệm đến tận tay khách du lịch quốc tế. Hướng dẫn viên du lịch chỉ còn biết đưa khách đến những khu chợ đêm hoặc những dãy hàng lưu niệm dọc các khu phố cổ. Điều đáng nói là ngay cả những khu chợ sầm uất nhất như Đồng Xuân, chợ Hôm… mặt hàng lưu niệm được bày bán nhiều nhất vẫn là những sản phẩm làm từ Trung Quốc.
Một số làng nghề thủ công truyền thống đã mở các cửa hàng trưng bày và giới thiệu sản phẩm. Tuy nhiên, nhìn chung khâu tổ chức, giới thiệu sản phẩm tại đây vẫn chưa được quan tâm. Thậm chí, ngay tại hai làng nghề nổi tiếng nhất Hà Nội là gốm Bát Tràng và lụa Vạn Phúc cũng bị pha trộn đồ Trung Quốc. Chính vì vậy, du khách nước ngoài đến các cửa hàng này vẫn chủ yếu để tham quan hơn là mua sắm.
Vấn đề giá cả của những món đồ này cũng là điều cần bàn. Giá thường không cố định, có khi cùng một chủng loại nhưng có người mua chỉ 5USD, có người lại mua tới 20USD, thậm chí tới 50USD… Nhìn chung các mặt hàng này về mẫu mã, chủng loại vẫn còn đơn điệu, một số mặt hàng có giá trị nghệ thuật cao như tranh chạm khắc gỗ, tranh sơn mài, tượng đá, chai lọ thủy tinh, sành sứ… thì rất nặng và khó mang đi xa, chất lượng vẫn chưa đảm bảo và giá cả ở mức “chặt chém”.
Theo KTS.TS Nguyễn Thu Hạnh – Chủ tịch Liên hiệp Khoa học phát triển Du lịch Bền vững, nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trên là do sản phẩm du lịch tại các di sản văn hóa ở Việt Nam chưa được đầu tư nghiên cứu và quy hoạch phát triển một cách hệ thống trên diện rộng, với mục tiêu và chiến lược dài hạn ở tầm quốc gia. Phối hợp liên ngành trong phát triển sản phẩm du lịch tại các di sản văn hóa của VN còn yếu; Giá trị của các di sản văn hóa còn chưa được đánh giá một cách khoa học và toàn diện; Phương thức đầu tư xây dựng sản phẩm du lịch và cơ chế phân chia lợi ích tại các di sản văn hóa chưa khuyến khích và thu hút được sự tham gia rộng rãi trong xã hội (đặc biệt là sự tham gia của người dân tại khu vực di sản). Mặt khác, nhận thức và trình độ chuyên môn của các đối tượng tham gia vào quá trình phát triển sản phẩm du lịch (nhà quản lí hoạch định, doanh nghiệp, tư vấn, khách du lịch, cộng đồng dân cư) còn bị hạn chế trên nhiều khía cạnh.