Bài 9: Ngành Văn hóa với công nghệ mới
Trong vài thập kỉ trước đây, nhiều quốc gia cho rằng: Chỉ cần tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử dụng khoa học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian, các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn hóa ngày càng tăng.
Trên thực tế, cuộc sống hiện đại đi kèm các yếu tố tiêu cực như chủ nghĩa cục bộ, địa phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí; sự phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỉ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử với cộng đồng. Những tiêu cực này đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người chúng ta.
Nếu phát triển nhưng tách khỏi cội nguồn dân tộc thì sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, CNH- HĐH đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc.
Hiểu được ý nghĩa đó, Bộ KH&CN và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) có buổi làm việc về tình hình triển khai Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ trong việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (Chỉ thị số 16/CT-TTg) vào tháng 10/2017. Vấn đề này đã được thảo luận sôi nổi vì sự thay đổi tư duy, cách tiếp cận đối với ngành VHTTDL về một ngành phi vật chất trở thành ngành công nghiệp mang lại giá trị gia tăng với nền tảng từ Cách mạng 4.0. Đây là điều mà ngành VHTTDL đang hướng đến.
Tại buổi làm việc đó, ông Từ Mạnh Lương, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ VHTTDL) đã báo cáo tình hình triển khai Chỉ thị số 16/CT-TTg. Theo đó, Bộ đã hướng dẫn các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch và đề xuất sản phẩm chủ lực phù hợp với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng 4.0; đề xuất các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh của ngành, lĩnh vực mình để tổ chức triển khai phù hợp với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng 4.0 và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Bộ VHTTDL cũng đề xuất các nhóm công việc dự kiến sẽ triển khai trong thời gian tới, gồm: Đẩy mạnh đổi mới công nghệ và triển khai ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi các công nghệ mới phục vụ công tác quản lí nhà nước của Bộ; Nghiên cứu, đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật để sẵn sàng ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu trong hoạt động của các lĩnh vực có liên quan như điện ảnh, mỹ thuật, biểu diễn nghệ thuật, thư viện, phát triển thể dục thể thao cho mọi người, huấn luyện thể thao chuyên nghiệp...
Bộ VHTTDL cũng đẩy mạnh xây dựng dữ liệu số của ngành (di sản văn hóa, dữ liệu về quyền tác giả và quyền liên quan theo thông lệ quốc tế...), đổi mới công nghệ lưu trữ và khai thác dữ liệu, tích hợp các ứng dụng nhằm cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến, cung cấp thông tin chính thống đến người dân và doanh nghiệp; Xây dựng hệ thống thông tin tổng thể phục vụ quản lí ngành du lịch, kết nối giữa Tổng cục Du lịch, Bộ VHTTDL, cơ quan quản lí Nhà nước ở địa phương, các cơ sở lưu trú du lịch, doanh nghiệp lữ hành, hướng dẫn viên du lịch… liên thông với các lĩnh vực liên quan khác theo định hướng xây dựng Chính phủ điện tử. Đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ đáp ứng xu thế phát triển của lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch. Tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ nhằm tiếp cận, ứng phó với xu thế phát triển của Cách mạng 4.0 và các lĩnh vực có liên quan của các nước tiên tiến.
Cũng theo ông Lương, Bộ VHTTDL đã lấy ý kiến đóng góp về sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh thuộc lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch. Trên cơ sở đó, dự thảo "Định hướng và danh mục các sản phẩm chủ lực có lợi thế cạnh tranh của ngành văn hóa, thể thao và du lịch giai đoạn 2017 - 2020" đã được soạn thảo. Với Dự thảo này, ngành VHTTDL sẽ chú trọng đến lĩnh vực du lịch thông minh để tạo sản phẩm lợi thế cạnh tranh trên nền tảng GIS, công nghệ thực tế ảo, lưu trữ, kết nối và khai thác dữ liệu lớn... Dự kiến năm 2018, danh mục này sẽ hoàn thiện và bắt tay sản xuất những sản phẩm chủ lực đầu tiên.
PGS.TS Lê Hồng Quang, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật cho rằng, với cách hiểu trước đây, ngành VHTTDL chỉ là ngành phi sản xuất, không tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Cách hiểu đó đã quá lạc hậu. Với cách tiếp cận mới cũng như thực tế đã chứng minh, ngành VHTTDL của nhiều quốc gia đã tiến tới phát triển nền công nghiệp văn hóa mà điển hình Hàn Quốc. Có những lĩnh vực tưởng chừng như chỉ có giá trị tinh thần như di sản, tư liệu... nếu kết hợp với công nghệ số có thể là nguồn tài nguyên trong bối cảnh Cách mạng 4.0.
Với ngành công nghiệp văn hóa cần 3 nền tảng chính là công nghệ, nội dung và tổ chức sản xuất. Tất cả những nền tảng này đều cần sự sáng tạo, đổi mới không ngừng, đặc biệt khâu tổ chức sản xuất sẽ bị tác động trực diện nhất. Với Cách mạng 4.0, từ khâu sản xuất, phân phối đến tiêu dùng đều theo cách mới.
Một vấn đề cũng là thách thức khi tiếp cận Cách mạng 4.0 chính là công tác thống kê hiện nay đang rất kém. Hạ tầng công nghệ tốt nhưng công tác thống kê không theo kịp thì chắc chắc không thể nghĩ đến nền công nghiệp văn hóa. Đồng quan điểm này, đại diện Vụ Lữ hành, Tổng cục Du lịch (Bộ VHTTDL) cho rằng, xác định sản phẩm chủ lực của ngành VHTTDL không chỉ dựa trên tiêu chí gia tăng giá trị mà làm giảm chi phí đầu vào, bớt sử dụng tiền đầu tư từ Nhà nước. Đại diện Cục Di sản văn hóa thì cho rằng, sản phẩm chủ lực của ngành VHTTDL cần chia làm nhiều cấp độ nhưng phải làm sao tạo được sự kết nối, chia sẻ với các lĩnh vực của Bộ.
(Còn nữa)