Việt Nam có tỷ lệ cao người nhiễm virus viêm gan
(TTTĐ) Ngày 19/12, Bệnh viện (BV) Đa khoa MEDLATEC đã tổ chức Hội nghị “Cập nhật điều trị viêm gan virus B và C” tại Hà Nội. Việt Nam nằm trong vùng dịch lưu hành cao, có hơn 8% người nhiễm HBV mạn, khoảng 15-25% người nhiễm HBV mạn sẽ chết do xơ gan hay ung thư tế bào gan.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), viêm gan virus B (HBV) là vấn đề y tế mang tính chất toàn cầu. Hiện nay, có khoảng 240 triệu người trên thế giới mang HBV mạn tính. Việt Nam nằm trong vùng dịch lưu hành cao, có hơn 8% người nhiễm HBV mạn, khoảng 15-25% người nhiễm HBV mạn sẽ chết do xơ gan hay ung thư tế bào gan.
Trong các bệnh truyền nhiễm thường gặp, viêm gan virus C cũng là vấn đề được xã hội quan tâm. Số liệu thống kê của WHO cũng cho thấy, trên thế giới hiện có khoảng 170 triệu người nhiễm virus viêm gan C (HCV) và 3-4 triệu người mắc mới mỗi năm.
Tuy nhiên, người mang virus B, C nếu điều trị kịp thời sẽ ngăn ngừa gây bệnh gan, xơ gan, ung thư tế bào gan và tử vong… Vì vậy, ngoài chẩn đoán và tiên lượng bệnh, điều trị thành công cho người bệnh luôn là vấn đề đặt ra với các bác sĩ lâm sàng.
PGS.TS Trịnh Thị Ngọc, Nguyên Trưởng Khoa Truyền nhiễm, BV Bạch Mai, Phó Chủ tịch Hội Gan mật Hà NộI cho biết, mục tiêu điều trị HBV là ngăn ngừa xơ gan, ung thư biểu mô tế gan và tử vong. Còn mục tiêu điều trị HCV là làm sạch virus, ngừng tiến triển hoại tử, xơ gan và không còn triệu chứng bệnh.
Đối với viêm gan virus B, theo PGS.TS Trịnh Thị Ngọc, hiện nay 3 thuốc ưu tiên sử dụng để điều trị viêm gan virus là Entercavir, Tenofovir và Peg- IFN, trong đó thuốc Peg-IFN là yếu tố tiên đoán cho đáp ứng bền vững.
Đối với viêm gan C, thuốc interferon có tác dụng rất tốt trong điều trị. Phác đồ điều trị tối ưu nhất đối với viêm gan virus C là sử dụng PegInterferon-α kết hợp với Ribavirin. Ngoài ra, còn có rất nhiều tiến bộ trong điều trị cho kết quả cao bằng sử dụng các loại thuốc uống không cần dùng Peg- IFN ở Mỹ hoặc các nước phát triển như Tây Âu. Tuy nhiên, giá thành để điều trị rất đắt có thể gần 2 tỷ cho đợt điều trị.
Trong quá trình điều trị, PGS.TS Trịnh Thị Ngọc lưu ý, để ngừa sự kháng thuốc bằng cách dự phòng (tránh những điều trị không cần thiết, bắt đầu điều trị thuốc kháng virus có tỷ lệ kháng thuốc thấp hoặc phối hợp thuốc, sử dụng thuốc thay thế khi không đáp ứng tiên phát) và theo dõi (xét nghiệm HBV 3-6 tháng/lần) trong suốt thời gian điều trị, kiểm tra sự tuân thủ điều trị trong trường hợp có bùng phát virus, khẳng định kháng thuốc bằng xét nghiệm đột biến kháng thuốc.
Ngoài ra, PGS.TS Trịnh Thị Ngọc khuyến cáo, việc điều trị thất bại có thể liên quan đến người bệnh như không tuân thủ theo yêu cầu của bác sĩ, sự đề kháng bẩm sinh với thuốc interferon alfa, tác dụng phụ, ngưng điều trị, giảm liều thuốc, điều trị không liên tục trong một đợt điều trị, thời gian điều trị không đủ… Vì vậy, người bệnh cần tuân thủ đúng phác đồ điều trị và kiểm tra định kỳ theo lịch hẹn của bác sĩ.
Phương Thu